Sự hợp tác giữa ngôn ngữ học và CNTT là vì tương lai đất nước trong thời đại 4.0
Cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 đã và đang tác động tới mọi ngành khoa học ở Việt Nam, trong đó có ngành ngôn ngữ học.
Đưa tiếng Việt vào máy tính là công việc đầu tiên của CNTT tại Việt Nam.
Bản sắc của công nghệ thông tin Việt Nam
Ngay khi máy vi tính xuất hiện ở Việt Nam vào thập niên 1980, thì vấn đề làm sao xử lý được tiếng Việt đã là một trong những công việc đầu tiên. Cũng vì thế, nhiều tác giả các hệ soạn thảo khi đó đã phải chủ động gặp gỡ, học hỏi các chuyên gia ngôn ngữ học (NNH) để hoàn thiện sản phẩm của mình.
Tuy nhiên, việc ra đời các hệ soạn thảo cho tiếng Việt mới chỉ là khởi đầu và tiếp sau đó còn rất nhiều việc phải làm như soát lỗi chính tả, xây dựng giao diện Việt hoá, nhận dạng chữ in, nhận dạng tiếng nói, chuyển văn bản thành lời nói, công nghệ dịch thuật, hỏi đáp thông minh…
Nói một cách hình tượng, TS. Nguyễn Chí Công – nguyên Trưởng ban Khoa học Công nghệ, Hội Tin học Việt Nam - cho rằng, định hướng này chính là bản sắc của công nghệ thông tin (CNTT) Việt Nam. Còn theo cố giáo sư Hoàng Phê thì trong quá trình này, bước đầu các chuyên gia CNTT phải học hỏi các nhà NHH để hoàn thiện sản phẩm của mình. Tiếp sau đó thì đến lượt các chuyên gia NNH phải được đào tạo về CNTT để đi đến các sản phẩm hợp tác giữa hai bên.
Tuy nhiên, theo cố giáo sư Hoàng Phê, trong nhiều năm qua, ở Việt Nam dường như thiếu một chủ trương, chính sách của Nhà nước cho sự kết hợp giữa CNTT và NNH. Vì thế, các chuyên gia CNTT đã phải tự mò mẫm, còn các chuyên gia NNH thì rất ít người chủ động đến với định hướng này.
Thậm chí GS. TS. Trần Trí Dõi – nguyên Trưởng khoa NNH, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc ĐHQG Hà Nội - còn cho rằng, với định hướng này qua các đề tài Nhà nước, cũng ít nhất phải có lời mời của chủ dự án.
Tuy nhiên, TS. Quách Tuấn Ngọc – nguyên Cục trưởng Cục CNTT Bộ Giáo dục và Đào tạo - cho rằng việc nên làm với các chuyên gia NNH là chủ động “gõ cửa” các bộ, ban ngành để đấu tranh cho vị thế của mình. Còn nếu với thái độ thụ động thì khả năng tiếp cận với CNTT của họ càng sẽ là vấn đề hơn.
Đáng mừng là trong Đề án đưa Việt Nam trở thành nước mạnh về CNTT được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cuối năm 2010 cũng đã có 4 chữ “xử lý tiếng Việt” trong nhiệm vụ thứ 6 về chế tạo sản phẩm, công nghệ mới. Được biết là để có 4 chữ đắt giá này trong Đề án cũng có "công" của Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, khi đã cùng với Hội Trí thức Khoa học và Công nghệ Trẻ Việt Nam kiến nghị với cơ quan soạn thảo Đề án.
Ngành Ngôn ngữ học đã làm gì?
Theo TS. Tạ Quang Nghĩa – nguyên Phó Cục trưởng Cục Tin học hoá (Bộ Thông tin và Truyền thông), lịch sử ngành NNH Việt Nam tất yếu phải ghi công các chuyên gia CNTT. Chính nhờ có họ, lịch sử ngành NNH đã bước sang trang mới với sự hiện diện trên môi trường số đang ngày càng thông dụng.
Song theo TS. Nguyễn Thị Minh Huyền – Chủ nhiệm Câu lạc bộ Xử lý Ngôn ngữ và Tiếng nói Việt (VLSP) - vấn đề này còn phụ thuộc vào động lực của chính các chuyên gia NNH. Về cơ bản, muốn có sự hợp tác chặt chẽ thì trước hết phải đào tạo được con người. Tuy nhiên, việc đào tạo bài bản cần gắn với việc xây dựng một chương trình đào tạo liên lĩnh vực, mà điều này thì không dễ thực hiện khi số lượng chuyên gia NNH sẵn sàng tham gia công việc này còn ít ỏi.
Công nghệ dịch thuật hiện rất phổ biến với nhiều ngôn ngữ. |
Trong ngành NNH cũng có nhiều người nhận thức nghiêm túc về việc phải có sự kết nối giữa hai cộng đồng. Nhưng trong thực tế của đào tạo và nghiên cứu, sự kết nối này không hề dễ. Nếu như những đề tài của các nhà NNH không gắn với CNTT thì cũng rất khó hợp tác. Ngược lại, các đề tài của ngành CNTT cũng có mời một số nhà NNH cùng tham gia. Tuy vậy, việc tham gia cũng tương đối hạn chế khi họ chưa dễ có chung tiếng nói.
Theo VietTimes.vn